Saturday, February 26, 2011

"NINH CA" HAY "NẪU CA"?

ĐIU BÀI CHÒI – CA KHÚC THAN THÂN
Đọc Blog Nguyễn Huệ tôi biết rõ thêm về nguồn gốc nhạc bản Trách Thân mà Hoài Linh từng lưu diễn. Tôi tìm trên mạng thì thấy tên bài khi thì gọi là Trách Thân, Trách Phận, khi gọi là Than Thân. Có lúc gọi là Than Thân Trách Phận. Tác giả bài viết Nẫu Ca đăng trong Blog Nguyễn Huệ, nói là tác giả ca khúc đó là Nguyễn Hữu Ninh, bạn của tác giả. Hoàn cảnh ra đời là thời người Mỹ “ngự trị” phi trường Đông Tác cho nên ca từ “lấy nẫu” đổi thành “lấy Mỹ”. Tác giả và Nguyễn Hữu Ninh đang sinh sống và làm việc ở 1 làng bên cạnh phi trường. Có một video clip ghi nhạc và lời: Phan Bá Chức và do chính tác giả Phan Bá Chức trình diễn.
Tuy có rõ thêm nhưng tôi chưa bằng lòng hoàn toàn Nguyễn Hữu Ninh là tác giả. Nguyễn Hữu Ninh có thể là nghệ sĩ diễn xuất ca khúc mà có lẽ nó đã xuất hiện lâu rồi, một ca khúc thuộc thể loại Bài Chòi quen thuộc ở vùng Phú Yên này. Nguyễn Hữu Ninh sửa lại một số ca từ để phù hợp hoàn cảnh không gian và thời gian. Vì vậy khi xướng ca lên, ca khúc làm rung động được nhiều người ở xung quanh và có nhiều người lầm Nguyễn Hữu Ninh là tác giả.
Trước hết nói về thể loại Bài Chòi. Người Nam Kỳ Lục Tỉnh thì thích ca Cải Lương. Ca Cải Lương ăn sâu khắp hang cùng ngõ hẻm. Ở Phú Yên thời xưa cũng vậy. Ca khúc Bài Chòi rất quen thuộc đối với mọi người, khắp thôn xóm đều nghe người ta “hô” bài chòi. Già trẻ lão ấu đều ưa thích ở cái thời giải trí chỉ biết có biết xem hát Bội, đọc vè, nói “dân tiên” và “hô” bài chòi. Đọc vè có vần có điệu và xem hát Bội thì ai cũng hiểu thế thì “nói dân tiên” là gì? Nói, đúng ra là đọc thơ ngâm nga theo kiểu đọc thơ Lục Vân Tiên. Có thể nói là 1 “loại hình âm nhạc” . Không cứ gì phải thơ Lục Vân Tiên mà bất cứ thơ lục bát nào cũng đọc được bằng cung điệu này. Thời tôi còn ấu thơ, thập niên 1940-1950, tôi thường được các bậc ông bà rãnh rỗi đọc ngâm nga cho con cháu nghe chơi.
Thế rồi khi tôi lớn lên loại hình này lớp con cháu không còn ai ưa thích nữa và nó mai một. Loại hình đọc vè có vần điệu và “hô” bài chòi được phổ biến. Hô bài chòi là hình thức thưởng thức thơ bằng cách đọc có cung điệu và được đệm bằng đàn cò và gõ nhịp bằng phách. Bọn trai gái tân thời không thích loại hình văn nghệ này mà có khi còn chê quê mùa nữa. Họ đua nhau thưởng thức tân nhạc đệm dụng cụ tân thời là đàn guitare, mandoline, banjo, harmonica, sáo, violoncel vân vân. Nhưng thứ này hãy còn là gì gọi là “xa xí phẩm” , chưa phổ biến rộng rãi trong dân gian. Đại đa số dân chúng hãy còn thích và xử dụng bài chòi để gởi gắm tâm sự.
Tôi thuộc tiểu số được đi học và được ra tỉnh thành. Tôi không mê nhưng cũng biết được nhiều “ca khúc” về bài chòi. Trong ký ức vẫn còn in hình bóng nó nên khi nghe Hoài Linh trình diễn ca khúc Than Thân thì ký ức sống lại. Tôi nghe thấy bài này quen quen và không biết ca khúc do Phan Bá Chức phổ nhạc (nói ký âm thì đúng hơn). Mãi sau này mới biết thêm tác giả của nó là Nguyễn Hữu Ninh ở Phú Hiệp và bây giờ qua bài viết Nẫu Ca mới biết hoàn cảnh ra đời của nó. Thời Nguyễn Hữu Ninh lưu diễn “Nẫu Ca” này tôi không có ở Tuy Hòa. Lúc đó tôi lưu lạc ở Nha Trang và ở Sài Gòn. Không hề nghe và biết nhạc phẩm đó cho tới ngày xem Hoài Linh trình diễn. Tôi lục lọi trên mạng tìm hiểu về Bài Chòi.
Ký ức của tôi giúp tôi nhận ra âm điệu một số bài mà các tác giả trên mạng liệt vào thể loại bài chòi được ký âm phổ biến trên mạng. Tôi phân biệt được 3 “loại” cung điệu bài chòi: loại hát ru như bài Lý Năm Canh. Loại “thai” bài chòi dùng để xướng tên con bài mà người bốc phải nó xướng lên để mọi người cùng biết con bài ông ta đang cầm ở trong tay là con bài gì trong trò chơi Đánh Bài Chòi. Loại thứ 3 là “hô” bài chòi rất phổ biến trong tầng lớp dân gian ở nông thôn mà thời thơ ấu tôi thường nghe. Loại này nay được Phan Bá Chức ký âm thành ca khúc. Nếu không thì cung điệu này sẽ mai một. Các thế hệ sau không biết “hô” bài chòi là gì. Điệu ru em và “nói dân tiên” của người Phú Yên nay đã chết. Tôi đính kèm video Nam Ngãi Bình Phú-QHVN để độc giả nghe lại 3 loại hình tôi nêu ra để có lời bàn luận.
Trở lại bàn ai là tác giả đích thực ca khúc Than Thân mà Hoài Linh đã lưu diễn. Như trên tôi đưa ra giả thuyết Nguyễn hữu Ninh là diễn viên. Một số ca từ có thể do Nguyễn Hữu Ninh đặt ra chứ không phải toàn bộ. Cung điệu thì chắc chắn không do Nguyễn Hữu Ninh sáng tác. Nó là 1 giai điệu dân gian. Giai điệu mà Phan Bá Chức ký âm đúng là giai điệu “hô” bài chòi ở Phú Yên. Giai điệu “hô” bài chòi ở vùng khác có thể khang khác chút đỉnh.
Nguyễn Hữu Ninh có thể làm một việc mà cũng có nhiều người đã làm. Đó là đổi một số ca từ của 1 ca khúc có từ trước kiểu như đổi ca từ Rước Tình Về Với Quê Hương của Hoàng Thi Thơ: “Anh xin đưa em về. Về quê hương ta đó/Anh xin đưa em về. Về quê hương tuyệt vời/Đèn trăng treo tuốt trên cao. Ánh sao như muôn ngọn nến/Lập lòe đom đóm hoa đăng. Rước dâu em đi vào làng…” thành ca từ “Anh đưa em đi chùa. Chùa hôm nay có chuối/Anh đưa em đi chùa. Chùa hôm nay có chè/Thầy chùa nhắm mắt tụng kinh. Anh với em đua nhau giành chuối/Thầy chùa nhắm mắt tụng kinh. Anh với em đua nhau giành chè…” Bọn trẻ thấy thú vị quá thi nhau nhau hát lung tung một thời.
Cũng như thời đó ca từ mà Nguyễn Hữu Ninh đưa vào giai điệu “hô” bài chòi quen thuộc đập được vào nội tâm dân vùng này nên ca khúc mà ca sĩ Nguyễn hữu Ninh trình diễn được nhiều người ưa chuộng và cứ cho Nguyên hữu Ninh sáng tác. Gọi “Ninh Bài Chòi” đúng hơn là gọi “Ninh nhạc sĩ” .
Ca từ phù hợp hoàn cảnh rất quan trọng. Những ca khúc của Văn Cao, Phạm Duy thời Tiền Chiến trở nên bất hủ cũng nhờ ca từ đánh động được nội tâm để giai điệu rót vào lòng. Hình ảnh “qua Phú Lễ ăn ẩu chua” , “xuống Đại Lãnh uống nước ngọt, “qua hòn Dừa ăn mực nang” đập vào lòng người sống ven biển Đông Nam Tuy Hòa. Cảnh khổ cực lam lũ nhưng đầy ắp tình chung thủy, xẻ chia truyền thống của người nông dân mà một số từ quen thuộc của dân địa phương (phương ngữ) đã mô tả- “tác giả” còn để lại trong bài hát- làm rung động được lòng dân. Cảnh đổ vỡ chia ly lúc đó phải nói rất là nhạy cảm “thời thế” . Cảnh khổ cực phải đi lấy Mỹ trong 1 xã hội đang đổi thay. Những thứ đó làm “ca khúc” bài chòi này trở nên hấp dẫn.
Bài hát chứa nhiều phương ngữ. Có thể nói “tác giả” dùng những phương ngữ trong một “bài chòi” đã có trước chứ không có sáng tác trọn bài bằng ca từ riêng của mình. Vì thế “ca khúc” trở nên gần gụi với dân gian. “Chớ” là tiếng đệm, tiếng nhấn mạnh được người bình dân hay xử dụng trong câu nói than thở. Bài hát xướng lên từ “chớ” làm cho nó gần gụi với dân ở đây làm sao! “Chớ” được lặp đi lặp lại nhiều lần. “Điệp ngữ” thứ 2 được dùng là “hầu nào” . Nông dân Phú Yên thường dùng cụm từ này nỗi khi kêu than kể lể. Cụm từ lập đi lập lại nhiều lần làm cho ta cảm thấy thân thương làm sao! “Vợ tui nó không ở nữa” là lối nói của người bình dân muốn nhấn mạnh, muốn lưu ý người nghe. Lối dùng 1 đại danh từ đi kèm sau 1 danh từ để nhấn mạnh danh từ đó là cách dùng rất phổ biến của người bình dân Phú Yên. “Trông đứng trông ngầu” là cụm từ người bình dân Phú Yên hay dùng để chỉ sự sốt ruột cao điểm trông chờ. “Không ngỡ, không ngàng” là lối nói của người bình dân Phú Yên. Ý chỉ sự lạnh lùng với kẻ khác. Vì thế có người sửa lại “ngàng” thành “màng” . Người Phú Yên thường dùng “ngàng” hơn “màng”. Đại từ “qua” được người Phú Yên ưa dùng để tự xưng mình cho thân mật. “Bán nước đá cái rồi em đi may” là lối nói của nông dân Phú Yên. Liên từ “cái” được xử dụng để nhấn mạnh người nghe chú ý đến họ. “Bắt ốc, hái rau” là cụm từ được người bình dân Phú Yên hay dùng để chỉ sự tảo tần, chịu đựng cảnh nghèo. “Cắn làm 3, cắn làm 4, cắn làm 5 là lối nói cữa miệng người nông thôn Phú Yên chỉ sự chia xẻ khắn khít. “Ăn nằm” người Phú Yên hay xử dụng để chỉ nam n chung đụng gần gụi thân thiết với nhau. “Như con cuốc nó kêu tu qua” . Xử dụng cụm từ này thấy rất gần gụi với người bình dân Phú Yên. Ta cũng hay nghe nói đến thành ngữ “như con cuốc mất con” chỉ 1 tình huống tương tự. Tình huống mà người nông thôn Phú Yên hay nói: “Làm gì mà quắn quít (vùng khác thì nói cuốn quít) như con cuốc mất con!” Sau cùng. “Quơ chú cha ơi là buồn” đúng là 1 tán thán phong cách Phú Yên.
Tóm lại bài chứa nhiều ca từ rặc màu địa phương Phú Yên, xứng đáng gọi là “Nẫu Ca”. Bao nhiêu năm giao lưu trộn lẫn, khó phân biệt đâu là phương ngữ đâu là từ chung cho cả nước. Nhưng để ý đến tầng suất thường dùng thì có thể nhận ra phương ngữ ở địa phương nào. Nhìn chung ca khúc Than Thân mà Hoài Linh trình bày mang nhiều dáng dấp ngôn ngữ người nông thôn Phú Yên. Từ đó đưa ra giả thiết ca khúc có thể có lâu đời. Ca từ có nhiều lần biến hóa. Ca khúc xứng đáng được gọi là “Nẫu Ca”, không của riêng ai. Cũng ca khúc đó nhưng so sánh một số diễn viên và Hoài Linh trình bày thì sức hấp dẫn lôi cuốn khác nhau. Lẽ tất nhiên khác nhau vì là chuyên nghiệp và nghiệp dư. Nhưng ở đây tôi muốn nói sức truyền cảm ở khía cạnh ngôn ngữ. Hoài Linh rất rành phát âm ngôn ngữ xứ Nẫu trong khi những diễn viên khác, ngay cả diễn viên người Phú Yên nhưng là thế hệ mới khó có được cái giọng rặc xứ Nẫu nên sức truyền cảm cho ngươi yêu xứ Nẫu ít hơn Hoài Linh. Có lẽ ngày xưa diễn viên Nguyễn Hữu Ninh hấp dẫn được nhiều người hơn. Sức truyền cảm mạnh mẽ hơn nhiều.
Trên đây là giả thiết đưa ra. Phần nhận định sau đây có thể khẳng định phần nào Nguyên Hữu Ninh hay là ai đi nữa không thể là tác giả hoàn toàn của ca khúc. Đọc bài viết “Nguyễn Hữu Ninh và Nẫu Ca” của Nguyên Đạt đăng trong Blog Nguyễn Huệ có thể rút ra 1 số chi tiết để đoán Nguyễn Hữu Ninh không phải tác giả hoàn toàn của ca khúc Than Thân mà Hoài Linh đã lưu diễn. Ký âm thì do Phan Bá Chức chứ cung điệu và lời ban đầu không hoàn toàn là của Phan Bá Chức như một số trang mạng giới thiệu. Nguyên Đạt kể vào khoảng năm 1984 tác giả có mua 1 bản nhạc rời có tên là Trách Phận ghi: Lời: Nguyễn Hữu Ninh. Ký âm: Phan Bá Chức. Tác giả tính đem khoe công với bạn (Nguyễn Hữu Ninh) nhưng bạn tỉnh bơ trả lời “Biết rồi, tao nhận trăm hai tiền nhuận bút (Chức gởi ra)nhậu sạch còn gì”. Việc xảy ra như vậy thì sao có video ghi “nhạc và lời của Phan Bá Chức và do chính tác giả trình diễn”? (cứ gõ từ khóa than than trách phận thì google tìm được ngay video đó cho bạn) Nhạc phẩm không hoàn toàn của riêng ai.
Nguyên Đạt viết tiếp:“Theo một số người am hiểu thì Nẫu ca Trách phận được viết theo điệu Xuân nữ, một làn điệu dân ca thuộc khu Nam Trung bộ, trong tập “Ca Dao&Dân ca trên vùng đất Phú Yên” cũng có in bài Trách Phận do nhạc sĩ Lương Văn Thanh ký âm theo điệu này”. Tác giả Nẫu Ca viết tiếp “Còn hoàn cảnh sáng tác thì Ninh đáp: “Gì mà đao to búa lớn thế? Chẳng qua gặp lúc cao hứng viết ra, đem hát chơi rồi người ta thích, người ta truyền miệng chứ có gì đâu”. Thế thì khá rõ ràng xuất xứ nhạc phẩm khó định tuổi ra đời này. Nó trở nên chung chung xứng đáng với tên gọi chung chung là Nẫu Ca, một loại hình “dân ca” ở xứ “Nẫu” . Giai điệu thì na ná như nhau. Ca từ thì biến hóa tùy hứng theo diễn viên am tường tiếng xứ “Nẫu.”
Theo như tác giả bài viết mô tả thì ta thấy tư cách của diễn viên Nguyễn Hữu Ninh, một nghệ sĩ lãng tử, vui chơi chẳng cầu danh, chẳng cố chấp. Tác giả Nẫu Ca cũng thuộc loại người thận trọng, khiêm nhường. Viết về bạn mình tác giả nói “…giả như có gì sai sót, không khéo người ta sẽ cho là hoa ngôn, xảo ngữ hoặc là thấy “người sang bắt quàng làm họ…vv… nên cứ lần lữa mãi cho tới bây giờ”. Bởi vậy thông tin về xuất xứ ca khúc mô tả trong bài viết Nẫu Ca có thể tin là sự thực.
Một đoạn âm thanh mà tôi insert trong video Nam Ngãi Binh Phú-QHVN có giai điệu “thai” bài chòi để gọi tên con bài và điệu “hô” bài chòi. Trong điệu “hô” bài chòi cũng có 1 đoạn than thân. Mời độc giả lắng nghe.
Tuy Hòa, Nguyên Tiêu
năm Tân Mão (2011)
Huỳnh Bá Củng.
Xin click vào: Nam Ngai Binh Phu QHVN để nghe và xem.

Friday, February 25, 2011

NHỮNG GIAI THOẠI VỀ NGUYỄN HỮU NINH


Kính thưa quý thầy cô và các bạn,

Sau khi giới thiệu một ngưòi bạn vong niên của tôi là anh Nguyễn Hữu Ninh, cùng với bài tản mạn “Nguyễn Hữu Ninh và Nẫu Ca” của Sáo Sĩ Nguyên Đạt, tôi đã nhận được những phản hồi (feedback) sau:

1. Thư của anh Nhanh Cao (Minnesota):

Mình xin lỗi ông bạn, có lẽ anh lớn hơn tôi. Nhận được blog và nhũng bài viết về anh Ninh tôi cùng một số bạn đồng hương Phú Yên ở xa quê hương, xa tổ quốc rất cảm động.

Thật lòng muốn khóc khi nghe Hoài Linh diễn đạt (bài Trách Thân). Cũng đã nghe vài lần lúc còn ở quê, nhưng thật lòng giờ thì muốn khóc.

Bạn biết Đặng Thị Thu trước ở Đông Tác không?

Được Thu kể là có một thời anh Ninh và Bạn thướng ghé nhà chơi.

Thôi chào anh. Chúc anh khỏe để viết và hy vọng sẽ làm sống lại những con người “vĩ đại” của quê hương mình.

Minnesota những ngày tuyết trải buồn.

Nhanh Cao,


2. Thư của anh Nguyên Đạt (San Jose):

Anh Hiền ơi,

Nguyên Đạt vừa nhận được cái Email của một người bạn chuyển tới (có thể anh cũng đã có) nhưng vẫn gởi anh tham khảo. Bài viết Nguyễn Hữu Ninh có sự phản hồi để có thêm tư liệu vậy là tốt. Duy có lẽ không đọc kỹ nên anh Hiệp chỉ nhầm giữa chỗ Phan Bá Chức (tôi viết ký âm tức ghi các nốt nhạc theo làn điệu có sẵn (Điệu Lý con sáo, Vọng kim lan... chứ không phải phổ nhạc: sáng tác). Qua 2 anh Long và Hiệp ta có thêm tư liệu mới về Ninh:

-Câu liễn

-Ngày mất của Ninh: 09-10-2003 chứ không phải 2005

-Ninh vào lính Thủy quân lục chiến là chính xác đấy bởi nếu là Chiến tranh chính trị thì "cải tạo" lâu lắm (dư năm để đi HO).

-Chuyện Ninh bị xé áo khi hát Nẫu ca ở buổi cắm trại (mà tôi chỉ biết loáng thoáng nên không dám đưa vào bài viết) nay nghe kể lại té ra đúng là vậy, chỉ thiếu chỗ bị thầy Hiệu trưởng cầm áo kéo đi bị rách vì cáo áo đã mục sẵn....

3. Thư của anh Đặng Châu Long:

Thưa các bạn,

Tôi có được đọc các bái viết về Nguyễn Hữu Ninh trên blog (Nguyễn Huệ). Xúc động bồi hồi và thẹn với chính mình. Thẹn vì đã cùng Ninh chia ngọt bùi một thời, thế mà chưa làm được cho Ninh điều gì cho ra hồn.

Tôi đang tập họp lại những kỷ niệm, hình ảnh để cố ghi lại những nét thực của một con người tài hoa, mệnh mỏng này.

Trong khi chờ hoàn thành bài viết, tôi xin gởi cho các bạn hai bài thơ cũ của tôi viết về Ninh. Một viết trước ngày Ninh mất một tháng và một khi hay tin Ninh mất. Mong các bạn chuyển cho Blog giúp.

Cám ơn các bạn đã cho tôi gặp lại hình ảnh người bạn thân thiết một thời

Mong sẽ đón đọc nhiều bài của các bạn.

Thân mến,

Đặng Châu Long

PS: Ngày mất của Nguyễn Hữu Ninh là ngày 09-10-2003 chứ không phải 2005

4. Liễn của anh Nguyễn Đình Chiến và Đặng Châu Long:


5. Thư của anh Hiệp:

Chuyển ý bạn bè Ninh,

Nhắc về anh Nguyễn Hữu Ninh, có một kỷ niệm mà tôi còn nhớ mãi là trong 1 dịp cắm trại tại khuôn viên trường Nguyễn Huệ (mới) nhân dịp Tất Niên.

Tôi không còn nhớ rõ năm nào (có lẽ khoảng 1969 đến 1971 ?). Anh Nguyễn Hữu Ninh đã mặc 1 bộ đồ bà ba đen, đầu đội nón cời rách rưới, tay chống gậy và mang mắt kính đen như 1 người hành khất mu`. Anh đi lang thang qua các khu cắm trại, dừng lại trước căn lều chính và hát "Trách Thân". Dĩ nhiên đi theo anh là hàng trăm học sinh Nguyễn Huệ, chúng tôi vây lấy anh vì vô cùng thích thú và thán phục với lời ca quê muà dí dõm và lối trình diễn độc đáo, khác lạ của anh.

Tôi không còn nhớ rõ lúc đó anh Ninh có còn là học sinh Nguyễn Huệ hay không, cũng có thể anh đã ra trường rồi, nhân dịp Tất Niên ghé quá Nguyễn Huệ trình diễn vài màn văn nghệ cái bang lộ thiên trước khi lên đường "đi vào nơi gió cát". Tôi chỉ gặp anh 1 lần đó thôi, và đó cũng là lần duy nhất được nghe anh hát, nhưng mấy mươi năm rồi mà tôi vẫn nhớ mãi và luôn suy tôn anh là 1 người nghệ sĩ tài hoa, độc đáo, và kỳ lạ nhất cuả đất Phú yên.

Trong hồi ký "Nguyễn Hữu Ninh và Nẫu Ca" anh Nguyên Ðạt viết rằng nhạc sĩ Phan Bá Chức đã "phổ nhạc" cho bản "Trách Thân", nhưng theo tôi thì chính anh Ninh đã sáng tác cả nhạc lẫn lời, có lẽ anh P. B. Chức chỉ góp phần phối khí và thay đổi chút ít để các ca sĩ chuyên nghiệp hát theo dễ hơn.

1 chi tiết nhỏ nữa liên quan đến bài hát và tác giả : cách đây khoảng 15 năm, Hội Ðồng Hương Phú Yên Nam Cali có mời danh hài Hoài Linh đến hát "Trách Thân" trong 1 dịp họp mặt đầu xuân. Tôi hỏi Hoài Linh là làm sao mà anh biết được bản nhạc này và lại có thể hát theo giọng Phú yên hay đến như vậy, Hoài Linh trả lời là ngày xưa có ở chung với nhiều người Phú yên tại Nha Trang và được người dân xứ Nẫu truyền thụ lại bản nhạc này của 1 anh trung úy Thủy Quân Lục Chiến.

Trong bài viết giới thiệu ở trên, anh Phạm Ðức Hiền viết rằng anh Ninh "học hết lớp 12 trường Nguyễn Huệ rồi nhập ngũ quân lực VNCH lên đến cập Trung Uý Chiến Tranh Chính Trị." Tôi nghĩ rằng chi tiết này có thể không chính xác vì trong blog cuả Nguyên Ðạt, hình như anh Ninh cũng đang mặc quân phục cuả đơn vị TQLC ?

Hiệp

6. Thư của anh Đặng Kim Côn (gởi cho anh Luận)

Luận,

Tôi đã đọc bài này trước khi gửi qua blog Nguyễn Huệ. Nguyên Đạt là Nguyễn Dạc, người nhận thư của anh giùm tôi ở San Jose, và cũng chính tôi khuyến khích NĐ viết bài này (trước khi nhận được xấp thư anh gửi)

Tuy nhiên, khi anh Hiền post bài, theo tài liệu gia đình Ninh cung cấp thì có một vài chi tiết không đúng, như Ninh không phải là Chiến Tranh Chính Trị, mà chính xác Ninh là Thủy Quân Lục Chiến. Cấp bậc thì bây giờ muốn gọi sao cũng được. (Ninh học cùng lớp tôi, sau cũng có ở tù chung với tôi và Chiến).

Cám ơn Luận đã gửi link cho tôi.

Ghi chú: Tôi đã liên lạc với em gái của anh Ninh là chị Nguyễn Thị Cảnh, thì được chị xác nhận chức vụ cuối cùng của anh Ninh là Thiếu Uý Thủy Quân Lục Chiến, và Giỗ của anh là ngày 9 tháng 10 năm 2003. Xin thành thật cáo lỗi cùng quý thầy cô và các bạn.

San Jose ngày 25 tháng 1 năm 2011

Phạm Đức Hiền

Friday, February 18, 2011

NAM BANG BÚT KÝ 2


Thấm thoát đã hơn một năm kể từ ngày Hoa Sơn khẩu kiếm tại Nam Bang. Năm nay Lão Bang Chủ Đặng Nhượng có lẽ sợ Nam Bang thanh thế lấn át Bắc Bang bèn muốn ra oai , phô trương lực lượng kêu gọi quần hùng khắp năm châu bốn bể về Đại hội Hoa Sơn năm nay tại Thung Lũng Hoa Vàng ở Bắc Bang.
Các bằng hữu trên Bắc Bang phần lớn đều đã có tuổi, không muốn phải di chuyển khỏi động, nên đã sốt sắng hưởng ứng lời kêu gọi đầy dụ khị của Lão Bang Chủ nối tiếng tài trí hơn người. Tại hạ dù không dzui lòng lắm, nhưng than ôi, bằng hữu Nam Bang, quí đạo hữu thấy chuyện bất bình không dang tay ra đỡ mà lại lấy đó làm vui vì đã có người vác ngà voi dùm. Thấy mình thân cô, thế cô, quần hùng khó địch, lại thêm vì nể nang Đặng phu nhân là người hiền lành, vui vẻ, coi việc nước như việc nhà nên tại hạ cũng đành ngậm bồ hòn làm ngọt gật đầu…đại .
Nghĩ đi, nghĩ lại vẫn còn tức tối, máu dồn lên đầu làm phu quân Vô Kỵ hết hồn sợ Triệu Minh ta bị tẩu hoả nhập ma không ai lo cơm nước mà chàng thì rất kỵ dùng “cơm chỉ” đã khuyên can không hết lời, nên cuối cùng cũng đành thúc thủ, cười nửa miệng, liếc mắt nửa con vì Nam Bang nào thiếu gì cao thủ, từ Mai Siêu Phong Lê Chính, đến Cảo Thơm Sư thái, Hoàng Phi Hiệp anh hùng, Đại hiệp Cái Hồng Chi, Huỳnh lão ngoan đồng, Đại lão Hòa thượng Trần Tử Hòa, vợ chồng Hoa Sơn Đại hiệp Liên+Hiển, anh em Đại gia họ Ngô, Út cô nương của phái Không Động, vợ chồng văn nhân Vân Hựu, vợ chồng Bổng trang chủ, Phạm Xuân bằng hữu của phái Không Quần, Thu Cẩm phu nhơn của Bang Nu-dọt . Ôi chời ui, ú la la… còn biết bao nhân sĩ, quần hùng… tại hạ không tài nào nhớ hết.
Thế mà…các lão cao thủ này đều thuộc dòng võ công băng giá, thấy tại hạ hay lanh chanh, xâm mình vác ngà voi nên chắc bảo nhau làm ngơ cho ngu muội này vác mỏi vai luôn cho… bõ ghét, chả vì thân này liễu yếu đào thơ mà ra tay nâng đỡ.
Như chim thêm cánh, như rồng gặp mây, lão Bang chủ Đặng Nhượng của Bắc Bang Hô Hê mới thừa thắng xông lên, cùng Cái Bang Chủ Hoàng Dung tức Nguyễn Thị cô
nương , quân sư họ Phạm, tên Hiền tung hoành ngang dọc, kén chọn cao thủ và lập tức kiếm vùng đất mới ra chiêu, kéo theo Hoàng Nhan công tử (không phải Hoàng Nhan Liệt đâu!) về phe mình, hoạch định kế hoạch trên in-tờ-nét. Hoàng công tử là người nhẹ dạ, bản tính hay thương người nên đã nghe theo lời thỏ thẻ, dụ khị của Thủ Quỹ Hoàng Dung Nguyễn Thị thì còn phương nào cứu gỡ nữa. Chàng bèn gõ bay, gõ biến làm thành một thành trì trên mạng với một cái tên nghe rất ư là vang dội, khiếp đảm quần hùng:

Đại Hội Cựu Học Sinh Phú Yên
Cánh Chim Tìm Đàn
28, 29 tháng 5, Năm Tân Mão
Tuy là trong lòng có hơi ấm ức vì tự nghĩ mình bị chèn ép, nhưng rồi thì đâu cũng vào đó.
Vì các Nam bang bô lão, đại hiệp, nữ hiệp, nam phụ lão ấu đều nhắm mắt làm ngơ,
chả ai thèm đếm xỉa tới nỗi buồn vạn dặm của Triệu Minh ta mà ra tay can thiệp… ôi thế thái nhân tình, thù này ta sẽ thanh toán với các ngươi tại tệ xá vào tháng Ba sắp tới. Bây giờ ván đã đóng thuyền, gạo thổi thành cơm, lại thêm Hoàng Dung Nguyễn Thị cô nương dỗ dành, dùng lời ngon ngọt khuyên can nên tại hạ đã nguôi ngoai chút chút để vui vẻ hợp tác.
Tại hạ cũng hân hoan kêu gọi Nam Bang bằng hữu, cũng như các bằng hữu mọi nơi trên địa cầu về tham dự hai ngày Đai Hội tại Thung Lũng Hoa Vàng cùng luyện thơ, luyện kiếm cho văn võ song toàn.
Tứ hải giai huynh đệ, ngoài Nguyễn Huệ, còn có các cao thủ của Bồ Đề, Đặng Đức Tuấn, Thánh Giu-Se v…v…anh hùng thì không thiếu mà giai nhân thì kể sao cho hết. (lão quân sư họ Phạm đọc tới đây chớp mắt lia liạ)
Lão bang chủ tuy thế vẫn còn chút e dè, muốn Nam bang ta hợp tác cho thêm vây thêm cánh nên đã ỉ ôi nhờ Hoàng Dung Nguyễn Thị dụ ta cho mượn gia trang vào tháng Ba trong tiết thanh minh để các bằng hữu hai bang Nam Bắc chén thù chén tạc họp tiền thượng đỉnh vào ngày :
Thứ Bẩy,
Mùng 5 tháng 3
từ 11g sáng đến 4 giờ chiều
6265 Cherokee Dr.
Westminster, Ca. 92683
(714) 927-3831 (home)
(714) 856-5696 (cell)
Mong các đạo hữu, cao thủ, đại hiệp, sư thái, sư bà, sư phụ, sư mẫu, nam phụ lão ấu của Nam Bang, Bắc Bang coi đây như một thiệp mời chính thức vui lòng tham dự và xin quảng bá nếu có vị nào không quen sử dụng in-tờ-nét để gây thêm tình bằng hữu và thanh thế của hai Bang.
Hôm nay, ngày cuối năm, năm hết Tết dến kính chúc quý bằng hữu xa gần một muà Xuân mới
An Khang, Thinh Vượng,
Hanh Phúc Tràn Trề
Hả Hê Mua Sắm
Bố thí mọi nơi
Thành Bồ Tát sống
Lấy việc nước làm việc nhà
Triệu Minh Nguyễn TrầnTấm
Nam Bang bút ký 01/31/11

Sunday, February 13, 2011

THẦY THIỀU

MỪNG SINH NHẬT ANH NGỌC THIỀU (26-01-2011)











Bao nhiêu năm sống trọn yêu thương,

Sinh nhật chúc anh thỏa mộng thường!

Sớm tối yên vui bên sách vở,

Tháng ngày trọn hưởng mối tơ vương.

Tâm hồn thanh thản không lo lắng,

Trí tuệ anh minh mãi quật cường.

Hạnh phúc an cư luôn hiện hữu,

Trăm năm tuổi thọ vẫn lên hương!

Thúy Mai


Họa bài thơ:

MỪNG SINH NHẬT NGỌC THIỀU
(của Thúy Mai)









Bảy bảy tuổi đời ngập mến thương,

Chúc anh hạnh phúc lạc an hưởng.

Vợ yêu kề cận lòng chung thủy,

Con quí quẩn quanh dạ vấn vương.

Luyện tập thể thân luôn nhẫn nại,

Trau dồi trí tuệ mãi kiên cường.

Trăm năm thọ hưởng Trời ban phước,
Cuộc sống thăng hoa tỏa ngát hương.

Như Liên
Santa Clara 1,2011


Chúc tết Tân Mão thầy cô Lê Ngọc Thiều: Nhượng, Phước, Hằng và Hiền.


Saturday, February 12, 2011

NGUYỄN HỮU NINH VÀ NẪU CA

KHÓC CƯỜI VỚI NGƯỜI THƯƠNG VAY

Tản mạn với Ng. Hữu Ninh -Người viết Nẫu ca

Từ lâu tôi đã muốn viết đôi điều về anh bạn Nguyễn Hữu Ninh, người sáng tác phần lời “Nẫu ca” Trách phận, một bài hát không những được người Phú Yên mà còn nhiều bà con vùng miền khác rất thích nghe và hát nhưng quả là khó, bởi Ninh là một con người khá đặc biệt, có cá tính lại được nhiều người biết tới; họ hoặc là bạn ở quê, bạn cùng trường, bạn văn nghệ hay là những người đã từng cùng Ninh qua một chặng đường nào đó; giả như có gì sai sót, không khéo người ta sẽ cho là hoa ngôn, xảo ngữ hoặc là thấy người sang bắt quàng làm họ…vv… nên cứ lần lữa mãi cho tới bây giờ.

Năm 1968, sau khi tốt nghiệp Sư phạm Qui Nhơn, tôi chọn nhiệm sở tỉnh Phú Yên và được điểu về dạy học ở trường Tiểu học Hòa Hiệp (người ta quen gọi là Trường Cây Bảng) thôn Phú Hiệp. Mỗi sáng thứ bảy, tôi thường để ra khoảng 15 phút cuối của tiết Sinh hoạt học đường kể chuyện cổ tích, tập hát hoặc cùng học trò làm những cuộc “Văn nghệ bỏ túi”, coi như là món quà vui trước ngày tạm nghỉ.

Một lần, tôi cao hứng tuyên bố: “Bây giờ thầy trò mình cùng hát, vậy em nào biết cải lương, tân nhạc, dân ca, ngâm thơ... gì gì đó chẳng hạn, biểu diễn cho bạn bè cùng nghe cho vui”. Chưa dứt lời đã có hàng chục cánh tay hào hứng đưa lên. Tôi chỉ định hú họa một em, em này mạnh dạn đứng dậy tự giới thiệu:

-Thưa thầy! Em xin hát bài “Trách phận”.

Rồi không cần lấy giọng, em “zdô” liền: Thân thì trách thân (này), thân sao mà lận đận. Mình mà trách mình (này), số phận...

Vừa tới đây, bất đồ cả lớp cùng reo lên: “Bài này em cũng biết, em cũng biết…”. Rồi chẳng ai bảo ai, đồng loạt tiếp lời: … số phận sao cứ hẩm hiu. Bởi thân tôi, tôi cơ khổ tôi eo nghèo, nên vợ tôi nó không ở nữa, (mà) nó theo… Mỹ rầu… (rập ràng y như đã dày công luyện tập từ trước) cho tới đoạn kết của bài hát khiến tôi rất ngạc nhiên, tò mò hỏi:

-Ủa! Sao em nào cũng biết hát bài này vậy hả?

Cả lớp cùng đồng loạt (lại đồng loạt) trả lời:

-Dạ. Bài này của anh Ninh “bài chòi” ngoài xóm Ga ạ!

-Sao lại gọi là Ninh bài chòi?

Một em ngồi đầu bàn đứng dậy giải thích:

-Dạ. Cái bài chòi này của anh Ninh ai cũng thích, cũng biết và hát được cả ạ!

Câu trả lời khiến tôi càng tò mò, bèn hỏi thêm một câu, giọng nửa đùa nửa thật: “Này, cái anh này mặt đen, mặt trắng ra sao mà sáng tác ra bài hát hay đến vậy?” thì đứa nào cũng ngớ mặt ra nhìn nhau bẽn lẽn mỉm cười. Vốn cũng là người sính nhạc, thích hát và biết một số làn điệu dân ca nhưng của đáng tội, cái thể loại bài chòi này, quả thật từ hồi nào tới giờ, đây mới là lần đầu tiên tôi được biết đến. Vậy là tuy chưa gặp mặt, tôi đã rất có “ấn tượng” với Ninh; định bụng sẽ tìm dịp làm quen, hẳn là thú vị lắm đây; nhưng rồi sau đó mãi bị cuốn vào công việc thường nhật nên chưa có cơ hội gặp gỡ, rồi hầu như quên bẵng.

Tết năm đó, trường chúng tôi cắm trại Tất niên và tổ chức một buổi diễn văn nghệ sân khấu. Trong khoảng thời gian này, Phú Hiệp còn thuộc vùng mất an ninh, nên bà con ở địa phương hiếm khi được dịp thưởng thức các loại hình giải trí vui chơi, hát hò; khi nghe đêm diễn văn nghệ của thầy trò trường Hòa Hiệp có đàn trống đình huỳnh, ai cũng háo hức mong ngóng trông chờ, coi như một ngày hội; nhiều thanh niên các thôn phụ cận còn xin tham gia một số tiết mục góp vui.

Là trưởng ban văn nghệ, đồng thời là người cầm đàn đệm cho ca sĩ “cây nhà lá vườn”, tôi phụ trách việc tập luyện luôn cho các cô cậu, trong đó có một “em” tóc chấm ngang vai mặt mày xinh xắn đang học nghề y tá, có chất giọng khá hay nhưng hát chưa được... chuẩn nhịp lắm nên tôi ráng bỏ công ra kèm cặp. Trai gái cùng tuổi đôi mươi, lòng xuân phơi phới gần gũi nhau dần dà ít nhiều nhen nhúm tình cảm, có lúc thăng hoa, tôi đã mường tượng rồi một ngày kia, nàng sẽ cười xinh xinh bên anh chồng thầy giáo. Nhưng… sự đời tưởng zdậy mà không hẳn là được zdậy. Chương trình văn nghệ diễn ra phần đầu khá suôn sẻ, tới nửa buổi bỗng một anh chàng từ đâu xuất hiện sau cánh gà tìm tôi nói trống không:

-Này! Có thể nhường “mình” cầm đàn cho cô... Th. hát được không?

-“Vậy sao được!” Tôi ú ớ từ chối: “Chúng tôi đã... tập tành đâu đó, bây giờ…!?” Nhưng anh ta cứ nằn nì:

-Thông cảm đi mà! Đây là “người quen”. Cô ấy là người tui… tui thương đó!

Tôi ngần ngừ một lúc, rồi không hiểu sao lại đồng ý trao đàn cho anh ta. Và kết quả tiết mục “Đêm buồn tỉnh lẻ”... bể đến thê thảm. Lý do đơn giản, anh ta chỉ quen chơi đàn thùng, khi chơi ghi-ta điện, âm thanh lạ quá nên quýnh quáng bị lỡ nhịp!

Tiết mục vừa chấm dứt, Th. quày quả bước xuống sân khấu vẻ mặt hầm hầm, chẳng nói chẳng rằng, “nguýt” tôi một cái muốn đứt con mắt, và lạnh lùng một ra đi không (thèm)... trở lại! Vậy là tôi đành phải hát bài ca con cá: Em ơi! Nếu mộng không thành thì… thôi để chia tay với mối tình chưa kịp bén rễ.

Sau buổi diễn hôm đó, chúng tôi kéo nhau ra bãi biển Lò Một trải bạt mở tiệc “khao quân” với nhau, gọi là ăn mừng thắng lợi. Không khí vừa sương sương, bỗng đâu một anh chàng đội mũ rơm, mang theo một cây đàn thùng sứt sẹo tới đứng bên, tay chống nạnh nói trổng: “Mình nhập bọn có được không?” Tức thì hai ba giọng đồng thanh mời gọi: “Được. Nhào zdô. Nhào zdô. Càng nhiều càng đông vui. Không sao đâu”. Vậy là cuộc chơi tiếp diễn. Được một lúc, hắn gõ gõ vào thùng đàn ra hiệu: “Mình làm một bổn giúp vui được không?” Lại hai ba giọng hùa theo: “Được, được quá đi chứ”. Chẳng cần màu mè phi-lô, hắn cất giọng đề-pa ngay: “Thân này, trách thân này, thân sao mà lận đận...”. Bầu không khí dường như hẫng đi chốc lát rồi tự nhiên sôi động hẳn lên. Ôi! Cái giọng khàn khàn, thô mộc, đặc sệt giọng “Nẫu” của anh ta trong bối cảnh bình dị chân quê ấy nghe sao mà “bốc” không chịu được. Vậy là cả bọn bắt đầu dòm trước dòm sau, thấy vật gì gần mình nhất là tiện tay vớ lấy, trưng dụng làm “bộ gõ” vừa đánh nhịp, vừa… la hét loạn xà ngầu. Nào lon bia, đồ hộp, muỗng nĩa, chén bát, đồ ăn thức uống… thôi thì tha hồ nhảy múa, vương vải lung tung; tới lúc tàn cuộc, “đứa” nào mình mẩy cũng mang đầy thương tích. Ôi! Đúng là một chiến trường tồi tệ!

Đó là lần đầu tiên tôi giáp mặt Ninh, người phá bỉnh mối tình vừa chớm nở, nhưng lại trở thành người bạn thân thiết sau này.

… Có lẽ “Trách phận” do lời lẽ chơn chất, âm điệu gần gũi với giới bình dân nên đã là một tiết mục đặc sắc được nhiều nghệ sĩ biểu diễn thành công và hấp dẫn người xem; khán giả thưởng thức thường được cười thỏa thuê, và vui... hết cỡ. Có nghệ sĩ khi tới trường đoạn bi thương còn thêm thắt: lấy từ trong túi một cái khăn đã nhúng nước, giả đò lau mắt rồi vắt chảy ròng ròng để gây cho cái cười thêm phần... ướt át! Có điều đáng buồn, dẫu nổi tiếng là vậy nhưng người cha đẻ ra đứa con tinh thần tuyệt vời này lại rất ít được người đời biết tới; trong thời buổi tranh tối tranh sáng còn có “Vị” khi đem “Trách phận” lên sàn diễn được người hâm mộ phỏng vấn, cứ cười cười (chơi trò đánh lận con đen) không xác nhận, mà cũng hỗng thèm phủ nhận mình có đúng là tác giả hay không. Phần Ninh, vốn là người trầm tĩnh, ít ồn ào khoe mẽ nên mỗi khi ngồi bù khú với bạn bè, nghe họ kháo chuyện và tức khí “giùm” mình vẫn cứ làm thinh, giữ vẻ bàng quang như đó là “chuyện” của thiên hạ, chỉ khi nào cao hứng mới lập lại trật tự bằng cách mở lời “Nẫu ca” để cho lũ nồi-niêu-soong-chảo được dịp nhảy múa, thêm vui cửa vui nhà thôi.

Tuy được nhiều người ưa chuộng là vậy, nhưng thật ra trước đây Nẫu ca Trách phận cũng chỉ mới phổ biến trong phạm vi hạn hẹp, phải tới khi anh Phan Bá Chức (cũng là bạn rất thân thiết của Ninh) biên soạn và ký âm lại, đem xuất bản, rồi nhiều nghệ sĩ biểu diễn, thu âm, phát thanh trên các phương tiện truyền thông thì mọi người trong nước và hải ngoại mới biết tới.

Tôi nhớ hình như khoảng năm 1984 có dịp vào Sài Gòn, ghé tiệm sách thấy một xấp nhạc rời (sau năm 75 loại nhạc rời hầu như biến mất) liền tò mò lật ra xem chợt bắt gặp cái tên Trách phận (Lời: Nguyễn Hữu Ninh – Ký âm: Phan Bá Chức) liền mua một bản đem về, hí hửng đạp xe qua Phú Hiệp gặp Ninh định khoe công trạng, không ngờ hắn vẻ mặt tỉnh bơ: “ Biết rồi, tao nhận trăm hai tiền nhuận bút (Chức gởi ra) nhậu sạch rồi còn gì”. Tẽn tò nhưng cũng thầm mừng cho Ninh có được người bạn quý.

Theo một số người am hiểu thì Nẫu ca Trách phận được viết theo điệu Xuân nữ, một làn điệu dân ca thuộc khu Nam Trung bộ, trong tập “Ca Dao&Dân ca trên vùng đất Phú Yên” cũng có in bài Trách Phận do nhạc sĩ Lương Văn Thanh ký âm theo điệu này. Còn hoàn cảnh sáng tác thì Ninh đáp: “Gì mà đao to búa lớn thế? Chẳng qua gặp lúc cao hứng viết ra, đem hát chơi rồi người ta thích, người ta truyền miệng chứ có gì đâu”. Vậy thì xin mạn phép vẽ ra một bối cảnh thế này: Dạo đó chiến tranh lan rộng ngày càng ác liệt. Phi trường Đông Tác phải mở lớn, chạy dài tới sát nách thôn Phú Hiệp, kéo theo những snach-bar mọc lên san sát để đáp ứng nhu cầu cho đám binh lính viễn chinh đồn trú bảo vệ. Có lẽ ở xóm Ga này, Ninh là người được tiếng có chữ nghĩa nên thỉnh thoảng các chị em ta (phần lớn đều nhà nghèo, thất học hoặc có thân phận lỡ làng) thường nhờ đọc giúp hoặc viết giùm thư từ cho người nhà hay bồ bịch, người yêu… vv. Phải chăng những mảnh đời trôi nổi, trái ngang, những nỗi niềm tâm sự u trầm uất nghẹn phơi bày ra trước mắt làm cho Ninh cám cảnh mà viết ra Trách phận?

Ngoài giao tình văn nghệ, Tôi và Ninh còn có chung một sở thích khác, ấy là ưa đi giang hồ vặt. Hồi còn dạy học ở Hòa Hiệp, một lần cùng bạn bè nhảy tàu vào Đại Lãnh chơi, bước xuống ga thấy cảnh biển-trời mây-núi đẹp quá, tôi cầm chiếc máy ảnh lia một vòng định chụp vài tấm hình kỷ niệm, xui sao một bà đang ngồi trong lùm cây gần đó hiểu lầm đứng dậy một tay xách quần, một tay chỉ chọt chửi một trận te tua vuốt mặt không kịp, khiến cả bọn kéo nhau chạy vắt giò lên cổ; tưởng đã yên chuyện, không ngờ lát sau còn bị mấy anh lính an ninh thiết lộ, chận đường đòi tịch thu máy ảnh; may sao, trong số đó có một người biết Ninh bài chòi can thiệp giùm mới thoát nạn.

Tôi còn được nghe một chuyện gần như giai thoại về Ninh; ấy là vào hè năm 197… Ninh cùng một nhóm bạn học ra Qui Nhơn (không phải thi vào trường Sư phạm như mấy người kia mà chỉ để rong chơi); tới ga Phước Lãnh, tàu dừng lại chờ khách lên-xuống. Ninh bâng quơ nhìn qua cửa sổ, thấy một ông già mù ngồi trước sân ga, van nài khản cả giọng chẳng ai cho, bèn đội mũ lác, tròng mắc kính đen (vật bất ly thân của hắn) vào rồi xách cây đàn thùng xuống xìa đít kế bên, lên tiếng… Trách phận, đến khi tàu chuyển bánh chạy tiếp, nghe đâu số tiền những người hảo tâm bỏ vào mũ ông già cũng hòm hòm đầy túi.

-“Nói thiệt, là bạn lâu năm của Ninh, tuy biết tính hắn có lúc “ngông ngông” nhưng…” Anh bạn kia vừa cười vừa dí dỏm kể: “nhưng gặp hoàn cảnh này mình cũng đành chào thua”. Chả biết anh chàng này có thêm mắm thêm muối ít nhiều gì chăng, nhưng tôi đoan chắc một điều: Nếu như Ninh đã lên tiếng than thân trách phận bằng Nẫu ca, người ta không móc hầu bao ủng hộ mới là chuyện lạ!

Lúc đó, tôi cũng tức cười, đía vào một câu:

-Đúng là con người ưa thương vay khóc mướn!

Đối với tôi, Trách phận là một bài hát kỷ niệm khó quên kể từ buổi đầu gặp gỡ. Sau này, dẫu nhiều lần được nghe những ca sĩ chuyên nghiệp hát với dàn nhạc đệm xôm tụ, nhưng chưa bao giờ tôi có được cái cảm giác thăng hoa như lần cùng nhau bù khú giữa bầu trời đêm thô mộc ngoài bãi cát Lò Một. Duy chỉ một lần nghe anh Nguyễn Đình Cai với chất giọng nhừa nhựa (do tuổi tác), hào hễn Trách phận góp vui trong buổi dạ tiệc đồng hương, mới chợt rưng rưng, bất ngờ vì thấy trên đất Mỹ giàu sang hoa lệ này, bà con mình vẫn còn thích nghe và hát Nẫu ca để nhớ về quê mẹ.

… Khoảng năm 2.00… nhân một cuộc hội thảo văn nghệ dân gian, nhóm đàn ca sáo thổi chúng tôi có tham gia minh họa một số bài dân ca ở sân trường Cao Đẳng Sư phạm Phú Yên, riêng Ninh (dẫu muộn màng) cũng được mời lên trình bày tác phẩm Nẫu ca Trách phận của mình nhưng hình như không cảm thấy hào hứng mấy.

*

Cuối cùng thì sự thể cũng đã xẩy ra y như nó phải thế, Ninh nhẹ nhàng đi về vùng trời miên viễn sau một một thời gian lâm trọng bệnh. Dạo này Ninh thường mang chiếc đàn YAMAHA (nghe đâu của người em từ nước ngoài gởi về tặng ông anh) tới nhà bạn bè hát một số bài do mình mới sáng tác, đáng tiếc gặp đâu bỏ đó nên không ai tập hợp lại được. Tiễn đưa Ninh đến tận nghĩa trang có cả những người bạn quen lẫn chưa quen nhưng ai ai cũng đều tỏ lòng thương tiếc. Có lẽ lúc sinh thời, Ninh cũng không ngờ tình cảm người ta dành cho mình ướt át đến thế. Đứng lơ ngơ giữa bầu trời lộng gió với ngổn ngang nỗi niềm tâm sự, Tôi bâng khuâng nhìn những khuôn mặt sướt mướt nhạt nhoà thoạt ẩn thoạt hiện xung quanh, bỗng dưng bần thần ngẫm ngợi: người ta mỗi khi nghe hay hát bài ca Trách phận thường cười đùa vui vẻ, nhưng không hiểu, có một lúc nào đó, sau những phút giây hả hê sung sướng, liệu có ai ứa được, dù chỉ một giọt nước mắt nhỏ nhoi cám cảnh cho thân phận của nhân vật (người chồng bị vợ bỏ quên) trong bài hát như Ninh đã hóa thân “thương vay khóc mướn”?!... Và, đằng sau than thân trách phận có còn điều gì đáng cho người đời suy gẫm xét soi??...

Viết như một nén nhang thắp tình bè bạn

San Jose tháng 01/2011

Nguyên Đạt

(Xin bấm vào link trên để thưởng thức nhũng tác phẩm khác của anh).

Thursday, February 10, 2011

Danh Sách Mạnh Thường Quân


QUYÊN GÓP CHO ĐẠI HỘI KỲ 2
(Tính đến ngày 25 Tháng 5 năm 2011)
TT
HỌ VÀ TÊN
SỐ TIỀN
ĐÃ NHẬN
1
Nguyễn Thị Hằng
$100
$100
2
Nguyễn Hồng Vân
50
50
3
Trần Việt Ngữ (Hùng)
50
50
4
Phạm Lan Anh (Tiền)
50
50
5
Nguyễn M.Tuyết (Hùng)
50
50
6
Lê Thị Cúc (Hòa)
50
50
7
Lưu Phúc Phương (Dậm)
50
50
8
Lê Minh Lâm
200
200
9
Hoàng Phước
50
50
10
T/C Nguyễn Ngoc Thiều
100
100
11
Đặng Đình Khuê
100
100
12
Hồ Tâm
50
50
13
Phan Ái Mai
100
100
14
Hoàng T. Phước (Nhượng)
100
100
15
Nguyễn Thị Để
100
100
16
Đặng Ngọc Bổng
100
100
17
Phan Thị Hiền
50
50
18
Nguyễn Kim Thanh
50
50
19
Nguyễn Hoàng Ánh
100
100
20
Trần Bạch Thuận
100
100
21
Hoàng Yến (“Tóc Vàng”)
100
100
22
Đặng Thị Quý
100
100
23
Nguyễn Cống Huy
100
100
24
Nguyễn Mai Hương (T. Nhạc)
100
100
25
Nguyễn Xuân Thanh (Hoa)
100

26
Lữ Đức Kỳ
100
100
27
Đặng Kim Côn
50

28
Trương Kỉnh Thành
50
50
29
Phạm Minh Xuân
100
100
30
Nguyễn Trung Châu
200
200
31
Trương Minh Chính
50
50
32
Trương Phương Vân
50
50
33
Nguyễn Thị Thanh (“18 Gian”)
100
100
34
Phạm Đức Hiền
100
100
35
Đặng thị Nga
100
100
36
Lê Thị Chính
100

37
Nguyễn Tần Tấm
100
100
38
Nguyễn Quốc Khánh
100
100
39
Nguyễn Lực
100
100
40
Cao Thị Cảo Thơm
100
100
41
Đào N. Hương (Nam Thái)
50
50
42
Đặng Thị Hòa
100
100
43
Đặng Thị Xuân
100
100
44
Trịnh vũ Hoàng Mai
100
100
45
Trương Thu Kỳ
100
100
46
MTQ Bắc Âu
50
50
47
Phạm Bích Diệp
100
100
48
Trịnh Văn Công
50
50
49
Đỗ Kim Quy
50
50
50
Nguyễn Văn Bửu
100
100
51
Nguyễn Mạnh Hùng
500
500
52
Cao thị Cẩm Nhung
200
200
53
Hàn Tuy Xát
100
100
54
Trần Hoàng Thân
50
50
55
Nguyễn Thị Út
100
100
56
Dưong Thị Tư
50
50
57
Trần Câu
40
40
58
Đặng Ngọc Hiến
50
100
59
Nguyễn thị Hạnh (Kathy)
100
100
60
Phan thị Kim Cúc
50
50
61
Phạm Bách Hợp
100

62
Lê thị Diệu Thanh
50
50
63
T/C Lê Quang Khanh
100
100
64
T/C Lê Trọng Ngưng
100
100
65
T/C Phan Văn Tùng
100
100
66
Vũ Thị Thiêm
100
100
67
Trần Tử Hòa
50
50
68
Đặng Quốc Hiền
50
50
69
Phạm Văn Thúc
100
100
70
Phạm Thu Cẩm
100
100
71
T/C Đặng Thị Mỹ
100
100
72
Phan Kiều Oanh
50
50
73
Nguyễn T. Kim Duyên
30

74
Nguyễn Minh Lựu
40
40
75
T/C Nguyễn Đình Quỹ
100
100
76
Trương Thị Hạnh
50
50
77
Truong Thị Hạnh
50
50
78
Tống Phước Cường
50
50
79
T/C Bửu Đôn
50
50
80
Lê Chí Hân
100
100
81
Vũ Hồng Hà
100

82
Nguyễn Thị Nghiêm
100
100
83
Võ Công Lộc
50
50
84
Nguyễn Đình Cai
130
130

Thâu cho Đại Hội 2011
$7,400.00
$7,070.00

Tồn quỹ Đại Hội 2009
$1,168.27
$1,168.27

Tổng Cộng
$8,568.27
$8,238.27