Chủ nhật. Siêu thị X.
Đang sắp
hàng trước quầy thu ngân, người khách phía trước loay hoay rớt đồ tứ tung. Tôi
cúi xuống nhặt giùm. Trời đất! X Lan.Về hồi nào? Khỏi phải nói cuộc gặp gỡ của
chúng tôi hoành tráng cỡ nào vì cả hai từng có chung một thứ, tiếng cười của
lớp học toàn con gái. Lục tung trí nhớ. Chịu. Tôi chẳng thể nào nhớ hết 54 cái
tên trên sơ đồ Gia đình 9A. Lướt qua lướt lại mấy vòng đành dừng lại ở con số
gần 30. Phải thán phục X Lan. Trải qua
rất nhiều biến động, chồng con, chỗ ở. Di chuyển từ tiểu bang này sang tiểu
bang khác, vẫn giữ nguyên những tấm hình từ tiểu học đến cấp ba và giờ lại một
trang web đầy ắp kỷ niệm.
Trường
cấp II Nguyễn Huệ nằm trên đường dẫn ra biển. Con đường hẹp, dài có hai hàng
phi lao chạy từ ga xe lửa đến tận những cồn cát cao. Chia tay bộ đồng phục
trắng tiểu học, chúng tôi hăm hở khoác áo dài. Mỗi Thứ Hai, nữ sinh mặc áo dài
xanh thiên thanh; những ngày còn lại mặc áo dài trắng. Khối lớp 6 cũng có lớp nam
nữ học chung, không hiểu sao lớp tôi toàn con gái. Trong xếp hạng “thứ 3 học
trò”, bạn đừng nghĩ chỉ ám chỉ con trai, con gái tụ tập với nhau không chừng
còn “nhỉnh” hơn rất nhiều. Điều đó đúng đối với lớp tôi từ 6A tới 9A, bốn năm
đình đám khó quên nhất.
Tôi đắn
đo không biết nên sử dụng tên thật, hay viết tắt. Dùng tên thật, các nữ sinh
ngày ấy (giờ đã là bà nội, bà ngoại) sẽ la oai oái. Còn tên hư cấu thì sẽ không
đủ sức tạo ấn tượng. Suy nghĩ mãi tôi và X Lan đồng ý để tên thật. Xét cho cùng
kỷ niệm đâu có tội tình gì. Chúng tôi không đứa nào được gọi đúng tên của mình.
Tên dù chẳng trùng nhau, cũng được đặt thêm một từ cho dễ nhớ, như X Lan “Bé Tí”
(tên ở nhà), Vui “Diễm Trang” (nhà tiệm may Diễm Trang), Hạnh “Chè Lạnh” (nhà
bán chè lạnh), còn tôi không được trắng lắm bị đặt là “Quang Chà” (đen như chà
và). Thiệt thòi nhất là Ng. Ng hiền,
người nhỏ con, nhà có quán cà phê tên “Bồng Lai Tửu Quán”. Tụi tôi đi học sớm,
lấm lét canh không có ai thì liền che nón hô to: “Bồng lên để xuống- “Bồng lên
để xuống”. Ba Ng chạy ra, cầm cái chổi lông gà y như cầm lệnh tiễn, ngó quanh
quất chỉ thấy mấy cái bóng áo dài vụt qua chưởi om sòm. Từ đó chết tên Ng “Bồng
lên để xuống”.
Cỡ lớp
8, lớp 9 thường có mấy anh trường khác lạng qua, lạng lại. Tìm hiểu mấy anh
cũng có những cái tên đầy ấn tượng như: “Trực Bida”, “Hồng Nem”, “Lâm Cu Tím”, “Hòa
Lác”… “Bida” hay “nem” thì hiểu ngay; riêng “cu tím” hay “lác” thì hơi thắc mắc
hổng lẽ…của nó tím, hay lác chỗ nào?
Khó nhất
là tên các thầy, những biệt danh nhỡ tới tai. Thôi thì xin quí thầy tha thứ, có
mắng thì mắng tụi 9A ngày trước, còn bây giờ tụi em vô can. X Lan cười hì hì,
hay! Ý kiến hay! Đầu năm lớp 6, thầy Tín vừa dạy văn vừa làm giáo sư hướng dẫn.
Thầy người Huế môi đỏ như con gái. Vẫn thói quen thời tiểu học, cả lớp ồn như
cái chợ. Thầy Tín hay đỏ mặt la: “Ê! Ê! Lên bảng”. Nghĩa là phải quay mặt vào
tường suốt giờ học, cả lớp không đứa nào thoát. Chúng tôi lén bỏ cát vào bình
xăng xe vespa của thầy, cuối giờ tan học
thầy đạp văng khói xe vẫn không nổ. Chắc thầy không ngờ thủ phạm là 6A.
Tổng
giám thị khi ấy là thầy Toản. Thầy Toản lưng đi thẳng tắp, giọng bắc sang sảng,
sáng Thứ Hai phát biểu dưới cờ, cả trường sợ xanh mặt. Hai phụ tá của thầy là
thầy Nhi và thầy Trĩ. Thầy Trĩ hiền, ăn mặc xuề xòa, lưng quần cái nào cũng
rộng đóng thùng áo không lòi trước cũng lòi sau. Ngược lại thầy Nhi tóc luôn
chải brillantine bóng mượt, mắt thường đeo kính đen. Thầy Nhi có lối nói chuyện
tưng tửng, nhiều lúc đang bị phạt, nhịn cười không nổi.
Năm lớp
7, chúng tôi bị dính vào một scandal động trời. “Ng Bồng lên để xuống” hiền
vậy, không hiểu sao lại sáng tác một thông báo chết người:
-Ngày
mai trường Nguyễn Huệ có cuộc họp quan trọng. Tất cả giáo sư [1]
phải đi họp đúng giờ. Giáo sư nào đến trễ hay vắng mặt, sẽ bị phạt 5 hèo (roi).
Ký tên:
Hiệu trưởng Đ.T.K Ng. Tiếp theo sau là chữ ký của 10 giáo sư dỏm, trong đó có
tôi.
Hôm đó
thầy Nhi tình cờ đi ngang lớp, tờ thông báo rơi xuống vào tay thầy:
-Tụi này
hỗn láo, dám đem các thầy cô ra giễu cợt, lên văn phòng gấp!
Cả ban
giám hiệu dỏm mặt mày méo xệch, tim đập thình thịch nặng nề rời lớp. Những đứa
còn lại thì thầm:
-Kỳ này
tụi mày chết!
Cả bọn
đứng dồn cục trước cửa văn phòng, thầy Nhi ra lệnh:
-Sắp
hàng một. Không. Quỳ thành hàng một.
Nhìn đứa
này dúi mặt vào lưng đứa kia, không đứa nào dám chường mặt ra, thầy to tiếng:
-Hiệu
trưởng quỳ trước, giáo sư quỳ sau.
Đã vậy
thầy còn đế thêm:
-Ông Trĩ
à! Ông Giang đang làm hiệu trưởng, trên lại đổi bà hiệu trưởng mới về, sao mình
không hay biết vậy cà?
Đang rầu
thúi ruột, tụi tôi cũng không nhịn cười được, dù chỉ cười khục khặc không ra
tiếng. Hôm sau, ban giám hiệu “dỏm” bị ban giám hiệu “thật” cảnh cáo toàn
trường và mỗi giáo sư bị chép phạt 100 lần:
-Em
không được đem thầy cô ra giễu cợt.
Phạt
cũng nhẹ. Hú vía!
Toàn con
gái chẳng một mống con trai cứ thế bày đủ trò, không chút mắc cỡ. Đến lớp 9 thì
những trò quậy phá tăng dần theo cấp số nhân. Hai dãy bàn đầu, chúng tôi lập ban
hợp ca “Hoa Hồng”. Ra chợ mua một cặp bông tai kết bằng hoa hồng vải, tách ra
mỗi đứa cài một cái trên ngực (Nói cho oai, chứ ra khỏi trường mới dám cài cũng
chỉ để lấy le với đám nhóc lớp 6, 7). Giờ ra chơi, thay vì chạy nhảy ngoài sân,
chúng tôi kéo cả lớp ở lại chia làm hai phe hợp ca. Không chỉ hát ong óng, còn
đập mạnh hai tay trên bàn; khỏi phải nói, ồn cỡ nào. Các bài tủ của chúng tôi
lúc bấy giờ là: “Khỏe Vì Nước”, “Dừng Bước Giang Hồ”, “Túp Lều Lý Tưởng”… Nói
chung càng giựt nhiều càng tốt.
Bên A
hát: “Khỏe vì nước, bánh ướt chấm nước tương”.
Bên B
phụ họa: “Nước tương!” “Nước tương!”
Hay bên
B: “Chiều nay sương gió, lữ khách dừng bên quán xưa”.
A phụ
họa: “Quán xưa!” “Quán xưa!”
Hát
trong giờ ra chơi thì không sao, nhưng có một sự cố buộc chúng tôi phải chừa
luôn trò hợp ca. Hôm đó thầy Quát dạy văn nghỉ đột xuất, lại chia làm hai phe
& lần này là bài “Túp Lều Lý Tưởng”.
A: “Từ
ngày hai đứa yêu nhau mộng ước thật nhiều”.
B: “Thật
nhiều!” “Thật nhiều!’.
A: “Từ
ngày hai đứa yêu nhau lòng ước bao nhiêu”.
B: “Bao
nhiêu!’ “Bao nhiêu!”
Đến đoạn
giữa cao trào cả A lẫn B cùng rống: “Túp lều lý tưởng”… 54 cái miệng há to hết
cỡ, gân cổ kéo chằng chịt, tay đập ầm ầm mặt bàn thì thầy Nhi cầm cây thước dài
xuất hiện, bám sát theo sau là thầy Trĩ hét: “Tụi bay phá trường?”. Cả lớp tông
hai thầy lạng quạng suýt té, chạy ù ra sân. Sân rộng, chỗ nào cũng thấy áo
trắng, hai thầy hoa cả mắt chẳng bắt được đứa nào. Thầy Toản thì đứng ở văn
phòng cầm micro hét lớn:
-Mấy con kia đứng lại! Tụi bay chạy như đèn cù, chóng mặt
quá.
Kết quả, cả lớp bị quỳ suốt hai tiếng dưới cột cờ. Nghĩ
lại, thấy tội mấy đứa hiền thường bị phạt oan uổng vì bọn tôi.
Dàn hợp ca chưa lên đã bị quỳ. Tôi, X Lan, M Vui, lại
thành lập ban tam ca “Sao Xẹt”. Những giọng ca không tên không tuổi, điếc không
sợ súng, đi hát cùng khắp thị xã. Tôi có người em họ tên Vinh cũng học trường
Nguyễn Huệ. Văn nghệ trường, hai chị em thường
hát song ca. Mỗi khi nghe xướng tên: Đây đôi song ca “Quang Vinh” là khoái chí,
mũi nở to như trái cà chua, tưởng tượng mình là Lê Uyên Phương dù giọng thường
đi trước, nhịp trật đường rầy theo sau.
Sự nghiệp ca hát của chúng tôi dừng lại giữa năm lớp 9,
vì phải học kèm toán & sinh ngữ hai là pháp văn, chuẩn bị lên lớp 10. Thầy Hưởng
(ba của thầy Ngô Liên Phương) không dạy ở trường Nguyễn Huệ nhưng nổi tiếng hai
môn này. Chủ nhật hàng tuần, chúng tôi đạp xe xuống đường Lê Lợi, đi qua mấy cái ngõ quanh co đầy dâm bụt mới
tới nhà thầy. Không chỉ dạy dễ hiểu, sinh động, lũ nhóc còn cười nghiêng ngửa vì
cách nói chuyện thâm thúy, đặc biệt tiếu lâm của thầy. Có lần đang giải toán,
chúng tôi nhai kẹo chewing gum chách chách. Đập mạnh cây thước trên bàn đến lần
thứ ba vẫn còn tiếng chách chách, thầy từ tốn nhìn xuống:
-Các trò có biết đang nhai gì không? Đó là da của mấy
thằng Mỹ. Hên thì trúng da mặt, da tay. Vô phúc đứa nào trúng chỗ nách,
chỗ…chỗ…đó, chết cha tụi bay. Thừa biết chewing gum làm bằng gì, nhưng bọn nhóc
cũng phun không kịp thở.
Học kèm ở nhà thầy Hưởng còn có bọn con trai. Đức “bồi”
giỏi toán, nhưng pháp văn thì thuộc hạng trời ơi, nghĩa là dở tệ. Hôm nào giải
toán bí hỏi Đức không trả lời, giờ Pháp văn tụi tôi trả thù không thèm nhắc.
Một lần, thay vì “bonjour monsieur”, Đức quýnh quáng xổ tiếng bồi: “Bonjour me
xừ”. Thầy Hưởng vỗ vai:
- Đức! Thầy biết trò có bà con với một thằng.
Cả lớp nhao nhao: Thằng nào, thằng nào? Thầy Hưởng tủm
tỉm:
-Bồi bàn bưng ra con gà. Khách hỏi: Bộ lòng đâu? Bồi trả
lời:
- Mè xừ chút chít manger- Mõi ne pas động đậy! (chuột nó
ăn, tôi không đụng đến).
Cả lớp cười ầm ĩ, Đức quay xuống nhìn chúng tôi lầm bầm:
-Đồ “phẻn bậu!” (cách nói dân PY, phản bội).
Tết năm đó, khối lớp 9 tập trung làm đặc san xuân. Tôi
trong ban biên tập lấy bút hiệu là “Cung Trầm”. Bài vở được thầy cô duyệt xong,
không hiểu sao khi quay ronéo lại có thêm một bài ký tên “Cung Bổng”. Chắc chắn
người đưa bài vào phải trong ban biên tập. Tôi la làng:
-Ông nào chơi xỏ
tui? Bộ hết tên đặt hả?
Cư lớp 9B gãi tai lúng búng: Tui… tui… đặt.
Tin thằng “Cu Cư” (Hồi nhỏ tên Cu, đi học thêm dấu móc
thành Cư) mết con “Quang Chà” lan rộng cả trường; báo hại mấy tháng liền giờ ra
chơi tôi không dám ra khỏi lớp. Thật lòng mà nói, tôi cũng có để ý thằng “Cu Cư”
vì tướng tá coi cũng được, lại học giỏi, chỉ phải tội có cái tên hơi...kỳ kỳ.
Tuổi 14,15 trôi đi êm đềm dù đang thời chiến. Mỗi đêm
tiếng đại bác từ đỉnh Chóp Chài vẫn ì ầm vọng về thị xã. Chiến tranh hằn lên trong
ánh mắt lo âu của người lớn, còn bọn con nít chúng tôi mặt trận như còn ở đâu
đó xa, xa lắm. Thế giới của chúng tôi chỉ là lớp học nhỏ, nhưng đầy tiếng cười
lớn. Không gian vừa đủ để yêu thương. Ngày nay dù có kẻ giàu người nghèo, kẻ
thành đạt, người lận đận, nhưng tất cả nữ sinh lớp 9A ngày trước đều thành
người lương thiện. Nếu thời gian có quay trở lại, chưa chắc các con nhóc tuổi
teen ngày ấy quậy thua teen bây giờ. Đó là cái quậy “sạch”, trong trẻo hồn
nhiên của bất kỳ đứa trẻ nào trong độ tuổi ấy, còn teen bây giờ…..
Chỉ cần gõ bốn từ “nữ sinh đánh nhau”, chưa tới một giây
đã hiện ra vô số video clip nói về hiện tượng này. Không chỉ một vài trường hợp
cá biệt, hầu như địa phương nào cũng có những trận hỗn chiến giữa các nữ sinh.
Nhìn nạn nhân mặc chiếc áo dài trắng bị xé rách nham nhở, một áo dài trắng khác
giơ điện thoại ghi hình, nhóm áo dài còn lại cổ vũ:” Đánh đi! Đánh nữa đi!”.
Tôi & X.Lan lặng người. Ai dám chắc những tà áo dài bị vấy bẩn bạo lực kia
sẽ trở thành mẹ, thành bà lương thiện ngày mai? Nhưng lỗi hình như không phải
hoàn toàn nơi các em.
Thế hệ chúng tôi không có internet, iphone, ipad…là điều
thiệt thòi hay may mắn? Bây giờ, các phương tiện hiện đại mở toang cánh cửa thế
giới bên ngoài, nên các em giỏi hơn, nhưng đồng thời cũng tiếp cận cái xấu với
vận tốc cực nhanh. Việc sàng lọc cái tốt lại vượt ngoài khả năng những con
người còn non nớt. Ngay cả người lớn chúng ta cũng bội thực vì các tin bạo lực
dày đặc trên mạng, thì làm sao bịt được mắt các em.
Sự hơn thua và vô cảm của không ít người lớn cũng vô tình
tiếp tay cho bạo lực. Khi nào còn những phụ huynh cố đạp sập cổng trường, lấy
cho bằng được một suất học tốt nhất cho con. Khi nào còn những bà mẹ có con gái
gây thương tích cho người khác lại phát biểu, chuyện con nít tôi không biết gì.
Thì việc dùng nắm đấm để khẳng định “Tao
phải thắng”, “ Tao là số 1”, hay thản nhiên quay phim, vỗ
tay khi người khác bị hạ nhục sẽ còn xuất hiện dài dài, không chừng vụ sau còn
tàn bạo hơn vụ trước.
Trường học cũng không còn là chỗ an toàn cho các em. Chỉ
cần một cái nhìn đểu, giựt bồ của nhau, điện thoại xịn hơn…, những lý do lãng nhách
này cũng được giải quyết, thanh toán nhau như giang hồ thứ thiệt. Cổng trường
nào cũng đông đúc phụ huynh đưa đón con. Quản thì quản, nhưng nhiều lúc cũng
không ngờ được, bạo lực lắm lúc lại xảy ra tại lớp học ngay dưới cái bảng “Tiên
học lễ, hậu học văn”.
Không thể so sánh tuổi mới lớn ngày xưa với tuổi mới lớn
bây giờ. Các em có nhiều thứ trước đây chúng tôi chưa từng có, lớn lên trong
thời bình, công nghệ thông tin hiện đại, điều kiện học tập tốt. Không chừng các
em còn giễu cợt, thời của mấy người lớn sao cổ lỗ sĩ “we we, pun we.” [2]
Bù lại, chúng tôi có một thứ mà phụ huynh hôm nay luôn khao khát cho con em mình:
lớp học không có bóng dáng bạo lực.
Tôi e ngại những tà áo trắng đã nhuộm màu tội ác, mỗi khi
nghĩ về bạn, về trường chỉ còn là nỗi ân hận, ám ảnh suốt đời. Còn chúng tôi,
có thể 20 năm, 30 năm hay hơn thế nữa nhưng khi nhớ về bạn cũ, trường cũ, tất
cả đều trìu mến thốt lên: “Thương lắm áo dài ơi!”
Quang Đặng