Nói đến chuyện tình yêu, đám bạn cũ của tôi nhao nhao phản đối: “Tuổi
này rồi đừng đụng chạm vấn đề nhạy cảm đó nữa!” Nhưng khi hỏi “Hồi xưa đi học yêu
ai? Tác giả bức thư tình đầu tiên là người nào?” thì ai nấy đều tranh nhau thổ
lộ. Có điều chẳng mấy ai buồn khi nói về
tình yêu ngày xưa ấy. Nếu có cũng chỉ là những tiếc nuối vẩn vơ, những âm ba
khuấy động tiếng lòng một chút mà thôi. Có lẽ vì đó là những năm tháng đẹp nhất,
khó quên nhất, lúc người ta còn trẻ, chưa biết tính toán thiệt hơn, thậm chí
ngây thơ nữa. Rồi năm tháng qua đi, khi lo toan dần rơi rụng thì chuyện cũ, những
rung động đầu đời tưởng đã ngủ yên bỗng trỗi dậy. Một sớm mai nào thức giấc. Nhẹ
nhàng bước ra khỏi giường, pha một tách café, mở một đoạn nhạc và nhớ lại.
Tôi không nhớ mình bắt đầu yêu từ lúc nào, năm bao nhiêu tuổi? Vì mãi
đến năm 14, 15 tuổi tôi và đám bạn của tôi vẫn còn rất nghịch. Chúng tôi nghịch
đến độ thầy Quát dạy Văn từng chỉ vào mặt cả lớp hăm dọa: “Nè, mấy bà 9A nghịch
như quỉ sứ! Mai mốt tui sẽ gả 4,5 bà cho một thằng binh nhì”. Eo ôi! cái chức binh nhì to quá nên vẫn không
đủ sức răn đe.
Hôm rồi đám cưới con gái Trần Đình Anh ở Sài Gòn, ông sui nhà gái
dành riêng một bàn toàn dân liên lớp 9 Nguyễn Huệ Tuy Hòa khóa 67-74. Khi được
hỏi ngày xưa sao không anh nào tán các
nàng 9A? Cả bàn liền ôm bụng cười khi Lê Định lớp 9B phán: “Tán 9A? đừng có mơ.
Yêu thì chưa biết, nhưng nghe chửi thì chắc chắn có”. (Trời! không lẽ ngày xưa
chúng tôi dễ sợ đến thế ư?)
Công bằng mà nói lời nhận xét đó đúng 50%. Nhưng một nửa còn lại, sự
thật hoàn toàn khác hẳn.
Này nhé chúng tôi rất dịu dàng, rất dễ thương, rất nữ tính, nhưng với
những ai khác kia chứ có phải với mấy “ông” đâu mà biết. Bên cạnh những trò nghịch
phá, chúng tôi cũng có những mối tình rất lâm li, rất lãng mạn. Chưa thể thống
kê có bao nhiêu đứa trong lớp tôi biết yêu ngày ấy, vì có nàng đến giờ vẫn đỏ mặt,
lắc đầu quầy quậy: “Không có đâu…Không có đâu…” Nhưng cho dù công khai hay chỉ he hé tấm màn
bí mật, các chuyện tình của lớp tôi đều thuộc diện dễ nhớ mà khó quên.
Cũng trong đám cưới con gái Trần Đình Anh, tôi gặp lại Cao Huy Thảo.
Ký ức về Thảo, tôi rất mơ hồ, lâu quá rồi còn gì. Nhưng có một điều không bao
giờ tôi quên là chuyện tình nổi tiếng một thời của Thảo và Nguyễn Thị Ngọc Tới
lớp tôi. Trong bữa tiệc tôi hỏi nhỏ Thảo:
-Nè! Hồi đó ông có gì với bà Tới chưa?
-Tui còn chưa biết giọng nói của bả.
Vừa ngạc nhiên tôi vừa buồn cười khi nhớ đến sự tưởng tượng phong phú của đám con gái
lớp mình hồi đó. Nào là chàng đã làm không biết bao nhiêu bài thơ ca tụng nàng.
Nào là Ngọc Tới đã hò hẹn với “Thảo Luối” (biệt hiệu của CHT) ở những đâu. Hóa
ra, chuyện tình lãng mạn của cô tiểu thư con ông trưởng ty Ngân Khố và cậu quí
tử của ông trưởng ty Tiểu Học Phú Yên chỉ nhẹ tựa sương khói mà thôi.
Gần đây trên diễn đàn Cựu học sinh Phú yên, các nàng lớp tôi rất
thích một bài thơ họa theo bài “Hai sắc hoa Ti gôn” của TTKH, nội dung như sau:
Nếu biết rằng mai Nẫu lấy chồng
Tui buồn! tui khóc “Khóc Một
Dòng Sông”
Đức Huy khóc nhỏ, tui khóc rống
Khóc đến khi mô Nẫu bỏ chồng.
Phải nói chúng tôi “tâm phục khẩu phục” trình độ họa thơ của tác giả.
Từ cách vận dụng hết sức lãng mạn bài hát “Khóc Một Dòng Sông” của Đức Huy, cho
đến cách dùng từ, nhất là từ RỐNG không thể chê vào đâu được. Nhưng vấn đề ở
đây không phải ý nghĩa của bài thơ mà là tên tác giả. Chúng tôi thắc mắc không
biết có phải anh Trần Đình Hiệp tức Hiệp Quảng Hòa hay không? Vì cái tên Hiệp
Quảng Hòa gợi nhớ đến một chuyện tình mà đến tận bây giờ có thể nhân vật nam
chính chưa hề biết mình từng “bị” yêu.
Tôi không hiểu hồi đó tụi nó lấy thông tin ở đâu mà sáng tác thiên
tình sử của Phạm Thị Kim Tòng (nhà sách Vạn Kim) với Trần Đình Hiệp (nhà in Quảng
Hòa). Mỗi lần thấy Kim Tòng ôm cặp đi vào là cả đám ca nhạc sĩ “tào lao” 9A đồng
thanh hát:
Tòng từ là từ Đông Tác
Đã qua dòng sông
Sông Đà Rằng tìm đến Quảng Hòa một
nhà in giấy la…la…la…la…la…la…la…
Ơi! Tình “Sách” duyên “In” là
duyên.
Tình chung muôn đời ta đắp xây.
(Hát nhái bài “Khúc Hát Ân Tình”: Người từ là từ phương Bắc…).
Tội nghiệp Kim Tòng hôm nào cũng lấy tay bịt cả hai tai chạy ù về
chỗ ngồi. Cô nàng đã khốn đốn trong suốt năm lớp 9 vì bài hát ghép đôi quái ác
này. Nhưng nói gì thì nói, tôi cũng phải công nhận đây là mối tình môn đăng hộ
đối, xứng sui gia nhất (Sách với In mà lị!).
Nhiều lúc tôi tự hỏi, sao có thể tồn tại trong chúng tôi trái tim một
thiếu nữ song song với tâm hồn một đứa con nít? Vì lên lớp 10 rồi chúng tôi chưa
thôi nghịch ngợm. Mấy “ông” học chung lớp vẫn là những gương mặt quá quen ở trường
Nguyễn Huệ cũ. Đến giờ toán bí câu nào là chẳng chút mắc cỡ: “ Ê! Ê! Ông A…ông B…quăng
giùm tui câu số…” , thế là chéo…chéo…chéo trong tí tắc một tờ nháp chui ngay
vào hộc bàn.
Không thể chọc ghẹo “người ơn” được, chúng tôi chuyển sang một đối
tượng “ độc và lạ” trong lớp là thầy tu Trần Văn Nhân. Mỗi lần thầy lên bảng trả
bài, ngồi ở bàn đầu chúng tôi hát nho nhỏ: Thầy
đi lên đồi cao. Tóc bay về hướng nào (nhái bài “Nguời Đi Hành Hương” của
TCS). Hay mỗi lần rằm, mùng một thấy thầy từ xa là cả bọn bắt đầu tụng: “Có ai cắt nghĩa được từ bi. Có khó gì đâu một
mái chùa. Nó chiếm hồn ta bằng tiếng mõ. Bằng xôi chè nếp cúng ngày rằm”.
(Nhái bài thơ “Vì Sao” của Xuân Diệu). (Hôm về Tuy Hòa họp lớp, ngó quanh quất
tìm thầy Nhân để xin lỗi nhưng chẳng thấy. Có lẽ ở một ngôi chùa xa xôi nào đó,
thầy cũng đã từ bi hỉ xả cho đám tiểu nữ yêu quái học cùng lớp từ lâu).
Thế đấy! Trong con mắt của chúng tôi, cái nhìn về quí ông học cùng
lớp vẫn không hề thay đổi. Nhưng ở trường Nguyễn Huệ mới còn có các anh giai lớp
11, 12 đầy mới lạ nữa, và tình yêu chỉ thật sự bùng nổ với những đối tượng này.
Hồi đó không hiểu sao ban giám hiệu trường lại nhét liên lớp 10
chúng tôi ra dãy phòng học tole phía sau trường. Mùa Hè gió từ những cánh đồng
lúa xung quanh thổi tới mát ơi là mát. Nhưng đến mùa mưa bão, thầy trò lại xấc
bấc xang bang chạy lụt. Nguyên nhân là giữa dãy phòng tole và dãy lầu có một
bãi cát rất sâu và rộng. Nhiều bữa đang học nước lớn phải vắt giò lên cổ chạy.
Nhưng bãi cát cũng chính là nơi chúng tôi chọn làm bãi đáp để đọc thư tình trong
giờ ra chơi. Trong đám bạn của tôi, đứa nhiều nhất có 7, 8 anh theo. Đứa ít nhất
cũng có 1, 2 mảnh tình vắt vai. Mối tình nào có vấn đề thì tụi nó ém nhẹm, thư
từ coi một mình. Tình nào bất kham thì giờ ra chơi tụ tập dưới bãi cát đem “những
bức thư tình hay nhất” ra đọc chung. Lắm lúc đối tượng đi ngang qua, mặt nghiêm
trang thẳng bước, nghe tiếng cười ngặt nghẽo cứ tưởng cười ai, đâu biết tác phẩm
của mình đang bị mổ xẻ tanh bành.
Chúng tôi gọi đoạn đường từ ngã tư Trần Hưng Đạo- Bùi Nguyên Ngãi (
nay là đường Nguyễn Trãi) đến trường Nguyễn Huệ là “Con đường tình ta đi”. Đến
giờ cao điểm không khó để phát hiện cái đuôi nào theo mình. Thúy Nga đã từng
quăng Hồng A sang bên trái khi thấy đối tượng theo Hồng A đi bên trái, rồi sẵn
sàng quăng Hồng A bên phải nếu đối tượng kiên trì bám bên phải.
Tôi phát hiện cái đuôi của mình cũng trên con đường tình đó. Xuân
Lan và Minh Vui thì không đủ sức quăng tôi như Thúy Nga, thành thử nếu đang đi
phía bên chợ thấy bóng hắn phía sau là tôi xàng ngay qua nhà sách Vạn Kim và
ngược lại. Hôm nào bí quá xàng không kịp thì sụp nón nghiêng hẳn một bên để khỏi
thấy hắn.
Mùa hè vừa xuống biển, ít phút sau đã thấy hắn nằm đọc sách kế bên.
Nhiều hôm đợi hắn bơi ra xa, tôi tò mò sang xem thử hắn đọc sách gì. Trời ạ! Học
hơn mình có một lớp mà hắn đã đọc Alexis
Zorba Con Người Chịu Chơi, Chiến Tranh
Và Hòa Bình, Khung Cửa Hẹp…Đồng ý hắn đáng nể thật nhưng cảm động thì chưa.
Tháng 10 ÂL Tuy Hòa lụt lớn cả trường Nguyễn Huệ được nghỉ học. Nhà
hắn lại ở bên hông trường Bồ Đề ngay rốn
lũ. Tưởng sẽ cắt được cái đuôi vài hôm, không ngờ sáng ra đứng trên lầu nhìn xuống
đã thấy hắn chèo ghe ngang qua nhà.
Sau một thời gian thực hiện phương châm “Không có việc gì khó, chỉ
sợ mình không lì”, hắn cũng tìm được cơ hội tiếp cận với tôi. Noel năm đó trời
rất lạnh. Hắn gặp tôi và Minh Vui trước nhà thờ Tuy Hòa. Không biết hắn đã dàn
xếp, mua chuộc Minh Vui bằng cách nào, rốt cuộc chỉ còn hắn và tôi đi bên nhau.
Đường Nguyễn Huệ với hàng dương rũ bóng và tiếng nhạc Giáng Sinh vẳng ra từ
quán café “Nhớ” là cơ hội vàng để hắn bày tỏ tình cảm:
-Quang thích thơ Quang Dũng không? nói rồi hắn ngâm nho nhỏ: Đôi mắt người Sơn Tây. U uẩn chiều lưu lạc…
Đang ngây ngất vì “được” đối phương tấn công. Tôi sực nhớ: “Mắt
mình cận thị, hắn lại nói u uẩn là sao?” Tôi quay sang hét lớn:
- Mắt tui xấu kệ tui, mắc mớ gì tới ông. Tính chơi khăm tui hả? Còn
khuya!
Nói xong tôi biến đi mất. Hắn đứng đó như trời trồng, miệng lắp bắp
điều gì không rõ.
Giờ thì kẻ si tình đó không còn trên cõi đời này nữa. Đại dương đã
nhấn chìm tâm hồn mơ mộng và mối tình đầu chưa hiểu vì sao lại chấm dứt tức tưởi
của hắn.
Tôi vừa gặp lại một người bạn rất thân của hắn, tay trống của trường
Nguyễn Huệ ngày xưa. Anh thú nhận từng yêu một nàng thuộc hàng yểu điệu thục nữ
“quí hiếm” của 9A. Tình yêu của họ giống y như bộ phim Romeo & Juliet cả hai
từng xem ở rạp Diên Hồng. Cũng những ngày tháng bên nhau êm đềm, cũng xung đột
giữa hai gia đình, cũng bức thư không đến được địa chỉ cần đến và cũng một cái
kết buồn.
Tuy nhiên cả hai không giận hờn hay oán trách gì nhau. Nhìn cái
cách họ cư xử bây giờ cũng có thể đoán
được mối tình sâu đậm ngày ấy. Còn người cất giấu những bức thư có đôi lần ân hận:
“Phải chi tao đưa hết cho nó”.
Không có “được hay mất, thắng hay thua” như những cuộc tình thường
thấy. Cả anh, cả nàng , cả “bồ câu không đưa thư” đến giờ vẫn chơi thân với
nhau. Giữa họ có một thứ còn quí hơn cả tình yêu là tình bạn.
Ngoài tình yêu với các nam sinh trường Nguyễn Huệ, chúng tôi còn
dành tình cảm cho một đối tượng khác nữa là mấy anh lính chiến (Thời chiến, nữ
sinh yêu lính là chuyện bình thường). Và một trong những mối tình đầy “sóng
gió” cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng mà tôi đã từng chứng kiến là mối tình chung của
Minh Vui, Xuân Lan và tôi với một chàng lính Hải Quân.
Năm 1972 Duyên đoàn 23 Hải Quân đóng ở Sông Cầu mời trường Nguyễn
Huệ ra kết nghĩa, giao lưu. Tôi, Minh Vui, Xuân Lan ở trong đội văn nghệ, còn Hồng
A, Thúy Nga, Ái Vân, Mỹ Hoa (chân dài hồi đó) thuộc nhóm nữ sinh được chọn trao
vòng hoa cho các chiến sĩ.
Tôi còn nhớ hôm đó trời rất đẹp. Tàu Hải quân đón đội văn nghệ của
trường tại bãi biển Tuy Hòa. Cả nhóm đứng trên boong tàu, lòng lâng lâng với cảnh
mây trời nước biếc. Tuy nhiên giây phút lãng mạn đó không kéo dài được bao lâu,
mới ra tới cửa biển Tuy Hòa chúng tôi đã
bị đo ván. Tôi, M Vui, Hồng A bị say sóng nằm la liệt dưới sàn tàu. Tội nghiệp
nhất Hồng A, mặt mũi hoa khôi 9A tái xanh, vừa ói, vừa bê bết mồ hôi thều thào
nói: “Nước… nước… tụi bay”. Trong lúc vật vã, tôi mới thấy khả năng lướt sóng của
Mỹ Hoa và Xuân Lan rất đáng nể. Hai đứa tỉnh bơ cười nói rổn rảng, thỉnh thoảng
còn nhìn Hồng A ái ngại: “ Có bao giờ nó chết không bay?”
Sau mấy giờ lênh đênh trên sóng nước, tàu cập bến Sông Cầu. Cả bọn
dìu nhau xuống cầu cảng trong bộ áo dài trắng nhàu nát như một đoàn quân thất
trận. Nhưng đúng là sức trẻ, về tới căn cứ Hải Quân lần đầu thấy tiệc buffet tụi
tôi tỉnh rụi.
Một tuần sau khi đã về lại Tuy Hòa, X Lan nhận được một lá thư có nội
dung như sau: “Chào X Lan! Em là X Lan
trong nhóm của M Vui, Quang phải không? Anh đã nghe các em hát ở Sông Cầu. Các
em hát hay lắm, cho anh làm quen nhé. Anh tên là HV. À! Anh đã nhặt được căn cước của X Lan trong
toilet nhà thuyền trưởng.” (Ttình yêu bắt đầu từ cái nơi chốn không được
cao quí cho lắm)
Thư đi thư lại mấy lần thì nhà trai và nhà gái hẹn gặp nhau lúc 10
h sáng ngày…tại địa điểm…ở Sông Cầu.
Phương tiện di chuyển lần này là xe than.
Địa điểm X. 9h ngó quanh quất không có ai. 9h30 vẫn không có ai. Đúng
10h đường phố vắng tanh, ngoại trừ một người đàn ông “cứng” tuổi, nhan sắc hơi
bị “hẻo”, tướng cù lần từ xa đi tới. Bất chợt ba đứa tôi đưa mắt nhìn nhau: “Trời!
chàng của mình đấy ư?”. Trong tâm tưởng của chúng tôi, chàng có thể không đẹp
trai bằng Duyên đoàn trưởng hay lịch lãm như Duyên đoàn phó, nhưng ít ra cũng
hào hoa, rắn rỏi, trẻ trung như các thuyền viên khác. Đằng này nếu đúng, thì cụ
là người già nhất của đơn vị. Đã vậy y phục lại không đụng hàng với ai. Bên trong áo chemise,
cụ còn chơi cái áo thun trắng cổ tròn ôm sát cổ y hệt người già nữa chứ.
Tự dưng không ai bảo ai, cả ba đứa tôi vụt cắm đầu chạy. Vừa chạy
tôi vừa ngoái đầu nhìn lại. Trời đất! Cụ cũng chạy theo. Cuối cùng ba đứa phải bỏ
cuộc vì cụ chạy ghê quá! (Dù gì cũng là dân Hải Quân!). Vừa thở hào hển chúng
tôi vừa hỏi: “Dạ… dạ…dạ… anh là HV phải không? Cái gật đầu kèm thêm nụ cười rộng
hết cỡ của cụ đã làm giấc mơ “Hoàng tử” ấp
ủ bấy lâu vỡ tan tành.
Cứ tưởng tình đầu của chúng tôi sẽ bùng cháy như cục than đỏ trên
chuyến xe than buổi sáng, đã trở nên
chán ngắt như lúc phụ bác tài đẩy chiếc xe hư trên dốc Găng chiều hôm đó.
Chưa hết sốc vì mối duyên tiền định ở Sông Cầu, ít lâu sau chúng
tôi lại hăm hở bước vào cuộc tình “ em hậu phương, anh tiền tuyến” mới. Khác với
tình chung lần trước, lần này mỗi em là một chàng sĩ quan Cá Vàng (Alpha vàng ). Tuổi mới
lớn lại gặp cơn gió lạ từ các chàng sinh viên y khoa ở Sài Gòn về, tụi tôi xao
động ghê gớm. Nhưng đúng là con nít, hẹn hò bất cứ nơi đâu ba đứa lúc nào cũng bên nhau không chịu tách rời. Hồng A ra vẻ kinh nghiệm nói “Yêu đương gì ba
đứa bay, kè kè sát bên làm sao nói chiện!” Bà cụ non nói đúng! Cái kiểu yêu lính
cho có “phong trào” với người ta chẳng mấy chốc đã bị cái tính ngây ngô đè cho
dẹp bí.
20 năm sau khi đẻ thằng út ở bên Mỹ, bác sĩ đỡ đẻ cho Minh Vui
chính là anh chàng sĩ quan y khoa theo nàng ngày xưa. Không biết trong đầu óc của
chàng có còn một Minh Vui cao gầy rất xinh thuở trước, chứ mà trần trụi, bầy hầy
như lúc đó thì e…hèm…
Sau cuộc hội ngộ 40 năm ở trường Nguyễn Huệ , các thành viên của lớp
tôi liên lạc với nhau thường xuyên hơn. Chuyện
bạn, chuyện mình không cảnh đời nào giống cảnh đời nào. Một nửa lớp viên mãn với cuộc sống hiện tại, nửa
còn lại thì chua chát: “có lẽ hồi trước lớp mình học truyện Kiều kỹ quá!”.
Trong số người hạnh phúc, chúng tôi thật sự ngưỡng mộ các cặp yêu
nhau từ hồi còn đi học. Trong lần họp mặt mới đây ở Sài Gòn, thầy Nguyễn Trọng
Hiệp đã tròn mắt ngạc nhiên khi nghe một cặp vợ 9A, chồng 9D giới thiệu: “Con
đó vợ em - Thằng đó chồng em”. Một cặp khác vợ 9A, chồng 10A1 mấy mươi năm vẫn xưng
hô anh, em ngọt xớt.
Đến giờ này tuy chưa phải là “cặp đôi hoàn hảo”, nhưng các cặp vợ
chồng trên đã chứng minh rằng tình yêu xuất phát từ tình bạn là bền vững nhất.
Mấy nàng trót “yêu xa” thì tiếc rẻ: “Giá ngày xưa yêu rồi lấy một
tay nào học cùng lớp hay cùng trường Nguyễn Huệ thì hay biết mấy! Mình hiểu hắn,
hắn hiểu mình, khỏi sợ lầm lẫn”. Lời tiếc nuối ấy quả có lý. Con tim trinh nguyên chỉ có thể cho và nhận trong những ngày thơ
tình thơ mà thôi.
Một đêm mùa hạ năm 1979, có người học lớp 11B1 uống rượu thật say đến
ngồi trên thềm nhà một người lớp 9A. Bình thường đã ít nói, có rượu vào người ấy
càng lặng lẽ hơn. Người lớp 9A bất chợt hỏi:
- Hồi đi học ông ưa tui phải không?
-Giờ này bà hỏi có ích gì?
Hai câu hỏi cũng là hai câu trả lời. Biên giới giữa yêu và không
yêu, giữa tình yêu và tình bạn mong manh như chiếc thuyền chở người ấy ra đi
khuya hôm đó.
Bây giờ thì cả hai đang ở Mỹ. Thỉnh thoảng vẫn điện thoại thăm hỏi
nhau và thỉnh thoảng nhắc: “Bao giờ cho đến
ngày xưa?”
*Cám ơn các bạn lớp 9A đã gởi hình ảnh và tư liệu
No comments:
Post a Comment